Mục lục bài viết
Thuật ngữ “thương hiệu” là hệ quả của chiến lược phân khúc thị trường và khác biệt hóa sản phẩm. Thuật ngữ này được sử dụng như một công cụ của doanh nghiệp đối với thị trường, với khách hàng, rằng sản phẩm được cung cấp mang dấu ấn của họ và đã được bảo hộ nhãn hiệu. Thương hiệu lại không phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật và không được pháp luật bảo hộ. Một thương hiệu được tạo nên không phải do người tạo ra sản phẩm, không phải do cơ quan nhà nước mà chính là người tiêu dùng qua quá trình sử dụng và đánh giá những tính chất sản phẩm.
Trên đây là những chia sẻ Bá tin và Bá mong sẽ giúp ích được cho các Anh/Chịcách phân biệt thương hiệu và nhãn hiệu chuyên nghiệp, phục vụ tốt cho nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp mình. Tùy theo mức độ vi phạm và giá trị hàng hóa, dịch vụ bị vi phạm mà xác định mức phạt tiền khác nhau đối với hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ. Quyền tác giả là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, thường gọi là bản quyền tác giả. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ và phân biệt được giữa đâu là Nhãn hiệu, Logo,Thương hiệu và giữa chúng có sự khác nhau và giống nhau như thế nào?.
Công ty Luật HDS là một trong những đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật uy tín hàng đầu tại Việt Nam, luôn được khách hàng tín nhiệm trong thời gian qua. Với đội ngũ luật sư, chuyên gia tư vấn có trên 15 năm kinh nghiệm và chuyên môn cao, chúng tôi cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp luật kịp thời và chính xác nhất đến Quý khách hàng trong đa dạng lĩnh vực. Nếu nhãn hiệu là một thuật ngữ pháp lý, thì “thương hiệu” lại là một thuật ngữ kinh doanh.
Khái Niệm Của Nhãn Hiệu Và Thương Hiệu
Thương hiệu và nhãn hiệu có điểm giống nhau đều là chỉ dẫn thương mại, nó mang tính đại diện. Dùng để xây dựng, phát triển hình ảnh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đó. Tốt nghiệp Thạc sĩ Luật Đại học Duke (Hoa Kỳ), có nhiều kinh nghiệm làm việc tại các công ty luật lớn trên thế giới. Biểu tượng là một giai đoạn trong quá trình nhận thức của con người về thế giới khách quan. Ở giai đoạn nhận thức này, con người dùng một đối tượng (hình ảnh) này để thay thế (tượng trưng) cho một vật (hay hiện tượng) khác phức tạp hơn. Apple còn rất cẩn thẩn khi công khai list nhãn hiệu đã được bảo hộ của họ trên trang web của hãng.
Thương hiệu là một dấu hiệu (có thể là hữu hình hoặc vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi cá nhân hay một tổ chức, căn cứ theo định nghĩa của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO. Trong pháp luật Sở hữu trí tuệ chỉ nêu định nghĩa về nhãn hiệu, còn thương hiệu thì không. Nhãn hiệu được định nghĩa tại khoản 6 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân. Một trong những điều kiện tiên quyết của quá trình branding là phải phân biệt được hai thuật ngữ “nhãn hiệu” và “thương hiệu”, cũng như trả lời được câu hỏi “đâu là thương hiệu” và “đâu là nhãn hiệu” trong các tình huống thực tế.
Theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới , thương hiệu là dấu hiệu đặc biệt để nhận biết một sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ nào đó của một cá nhân, tổ chức. Nhãn hiệu được coi là những dấu hiệu để phân biệt sản phẩm hàng hóa này với sản phẩm hàng hóa khác của các tổ chức, cá nhân. Trong khi đó thương hiệu là một dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào đó của một doanh nghiệp.
Các Bước Để Xác Định Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Trí Tuệ ?
Nhãn hiệu được sử dụng dưới góc độ pháp lý và là một đối tượng của sở hữu trí tuệ, còn thương hiệu được sử dụng dưới góc độ quản trị doanh nghiệp và marketing. Trong quy định của pháp luật thì nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Nhãn hiệu sẽ được pháp luật bảo hộ sau khi thông qua thủ tục đăng ký, trừ trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng. Nhãn hiệu theo định nghĩa tại khoản 16, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Thương hiệu là một loại tài sản của công ty, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các chữ, các cụm từ, một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố trên”. Tuy nhiên trên thực tế cũng có các kí hiệu cấu thành nên thương hiệu không nằm trong số được liệt kê ở trên. Với tư cách là một đối tượng pháp lý, nhãn hiệu đem đến cho doanh nghiệp một sự bảo vệ pháp lý nhằm tránh khỏi các xâm phạm từ bên ngoài đối với quyền sở hữu đối tượng đặc biệt này. Nói cách khác, nhãn hiệu dùng để “chỉ định quyền sở hữu” (Theo Broadbent và Cooper, 1987) của một doanh nghiệp. Thương hiệu là thuật ngữ được sử dụng dưới góc độ quản trị doanh nghiệp và marketing. Không như nhãn hiệu được pháp luật bảo hộ thì thương hiệu lại không phải là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Đăng Ký Nhãn Hiệu, Cách Tốt Nhất Để Tự Vệ
Nhãn hiệu là thuật ng
ữ để chỉ chung với nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Theo các văn bản pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam, nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau, và là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ. Như vậy, thương hiệu là một khái niệm còn chưa được pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định cũng như không được bảo hộ ở pháp luật Việt Nam. Ngược lại, nhãn hiệu và tên thương mại là các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Thương hiệu là khái niệm chỉ toàn bộ sự cảm nhận, nhận biết của người tiêu dùng về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp. Nói cách khác, thương hiệu có thể bao gồm cả tên thương mại và nhãn hiệu (trong trường hợp doanh nghiệp có đăng ký bảo hộ cho tên thương mại và nhãn hiệu của mình).
Trong khi đó, nhãn hiệu lại có thể là từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng…giúp khách hàng nhận diện bên ngoài của hàng hóa. Ví dụ về thương hiệu và nhãn hiệu, khi nói đến thương hiệu là nói đến hình tượng về hàng hóa trong tâm trí người tiêu dùng. Dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. “Nhãn hiệu” là khái niệm được pháp luật bảo hộ nhưng “Thương hiệu” lại là khái niệm được sử dụng rộng rãi. Dưới đây là nội dung mà Luatvietnam hướng dẫn để phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu.
Có thể hiểu Thương hiệu là khái niệm có phạm vi rộng hơn, là tất cả những tài sản vô hình của doanh nghiệp, bao gồm cả các bằng Sáng chế, giấy Chứng nhận,… Nhưng trong một số trường hợp, 2 khái niệm này được hiểu giống nhau. SBLAW là đại diện sở hữu trí tuệ được Cục sở hữu trí tuệ cấp phép hoạt động, có mạng lưới hoạt động rộng khắp Việt Nam và thế giới. Thương hiệu là thuật ngữ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta trong thương mại, quảng cáo nên nó trở nên thông dụng được đa số người dân sử dụng và được cho là tương đương với “nhãn hiệu”. Nhưng thương hiệu thì có thể tồn tại mãi mãi ngay cả khi sản phẩm mang nhãn hiệu không còn tồn tại. Vì một sản phẩm có thương hiệu hay không là do đánh giá của người tiêu dùng nên chừng nào cảm nhận của người tiêu dùng đối với sản phẩm còn tích cực thì sản phẩm đó vẫn còn thương hiệu, ít nhất là đối với người tiêu dùng đó.
Bảng Giá Đăng Ký Nhãn Hiệu Độc Quyền
Tuy nhiên, hiệu lực sử dụng của nhãn hiệu thường thay đổi hoặc có được tiếp tục được sử dụng hay không phụ thuộc những tác động từ yếu tố bên ngoài như thị hiếu người tiêu dùng, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó thương hiệu lại không hữu hình và dễ dàng nhận biết như nhãn hiệu. Khi nhắc đến thương hiệu người ta sẽ liên tưởng đến nhiều yếu tố tạo nên danh tiếng cho sản phẩm như kiểu dáng, giá cả, chất lượng sản phẩm, định hình nhãn hiệu của sản phẩm, thái độ phục vụ của nhân viên cũng như cảm nhận của khách hàng. Do đó, các hiệu quả để phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu chính là tham khảo sự khác nhau giữa cách tiếp cận và bảo hộ của hai thuật ngữ này. Nhãn hiệu cũng được xem là một tài sản được xác lập thông qua việc được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Văn bằng bảo hộ, mà một tài sản sẽ được định giá, vì vậy nhãn hiệu cũng sẽ được định giá. Trong luật của một số nước, có thể kể đến Hoa Kỳ, còn công nhận nhãn hiệu sản phẩm trong marketing bằng mùi hương.
- Tuy nhiên, cách thức mà doanh nghiệp thể hiện cũng ra một hình thức để xây dựng một thương hiệu mạnh.
- Có các dấu hiệu nhận biết và nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh.
- Pháp luật Việt nam cho phép đăng ký và bảo hộ độc quyền đối với nhãn hiệu, còn thương hiệu lại không phải từ ngữ luật hóa, không được đăng ký bảo hộ.
Như vậy, thuật ngữ “nhãn hiệu” và “thương hiệu” sử dụng trong bối cảnh khác nhau, dưới góc độ pháp lý chúng ta sử dụng “ nhãn hiệu”, còn ở góc độ quản trị doanh nghiệp thường dùng thuật ngữ thương hiệu. Yếu tố đầu tiên để phân biệt sự khác nhau giữa thương hiệu và nhãn hiệu chính là tính hữu hình. Nhãn hiệu là những dấu hiệu bằng từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ, màu sắc,… hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó, có thể nhận biết được bằng các giác quan, thường là thị giác.
Để tạo thuận lợi và nâng cao năng suất, hiệu quả trong bán hàng và quản lý kho người ta thường in trên hàng hoá một loại mã hiệu đặc biệt gọi là mã số mã vạch của hàng hoá. Một Công ty, một tổ chức có một logo đẹp, ấn tượng sẽ là tiền đề để lưu giữ uy tín của mình trong cộng đồng. Hai biểu tượng của đặc trưng của nhãn hiệu (Goldidea sẽ giải thích ý nghĩa trong blog tiếp theo).
Còn nhãn hiệu theo định nghĩa tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu có thời gian bảo hộ và thời gian tồn tại ngắn hơn so với thương hiệu. Pháp luật Sở hữu trí tuệ quy định thời gian bảo hộ là 10 năm, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền gia hạn, mỗi lần gia hạn là 10 năm và sẽ không giới hạn số lần gia hạn. Đồng thời, nhãn hiệu sẽ không tồn tại nếu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu chấm dứt sự tồn tại.
- Thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy.
- Rõ ràng, trong lịch sử, thương hiệu và nhãn hiệu vốn đã có những cách hiểu tương đồng ở một số khía cạnh.
Theo khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung 2009, nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Thương hiệu là cái vô hình và chúng ta chỉ có thể cảm nhận được nó mà không thể nhìn thấy được như nhãn hiệu. Thương hiệu được hình thành từ quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm. Hàng hóa, dịch vụ được sử dụng rộng rãi và được nhiều công nhận thì thương hiệu sẽ trở nên nổi tiếng, có giá trị. Chúng tôi sẽ cung cấp một trong những mẹo để phân biệt đâu là thương hiệu, đâu là nhãn hiệu của sản phẩm.
Không những vậy, thương h
iệu còn thể hiện cá tính, địa vị, phong cách sống của người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng đáp ứng được các nhu cầu về tinh thần. Tuy thuật ngữ thương hiệu được sử dụng rộng rãi trong hoạt động kinh doanh, thương mại nhưng đây không phải là một thuật ngữ pháp lý. Chắc hẳn sau khi tham khảo xong bài viết này, các bạn đã có thểphân biệtnhãn hiệu và thương hiệukhác nhau như thế nào. Để có được thành công bền vững, doanh nghiệp cần phát triển đồng thời cảnhãn hiệu và thương hiệu. Trong khi đó, thương hiệu lại không phải đối tượng điều chỉnh của luật pháp và không được luật pháp bảo hộ.
Theo Sarkar và Singh , trong lịch sử, một số nền văn minh như Mesopotamia và Hy Lạp sử dụng các nhãn đánh dấu và tên để nhận diện hoặc biểu thị cho các sản phẩm của họ – chủ yếu là rượu vang, cao mỡ, bình/chậu hoặc các đồ kim khí. Từ thương hiệu có nguồn gốc từ từ Old Norse brandr, có nghĩa là “đốt cháy” (một dấu hiệu nhận biết được đốt trên vật nuôi bằng bàn là được nung nóng) như một “nhãn hiệu” và là phương tiện mà chủ vật nuôi đánh dấu để xác định vật nuôi của họ. Nhãn hiệucó thể thay đổi hoặc không còn tồn tại do thị hiếu hay ý chí của doanh nghiệp; khi sản phẩm mangnhãn hiệuchấm dứt sự tồn tại thìnhãn hiệusẽ đương nhiên chấm dứt tồn tại.
Trong hoạt động quảng bá, logo không phải là thương hiệu, tuy nhiên nó là ấn tượng bên ngoài để dễ nhận ra thương hiệu. Một công ty, một tổ chức có một logo đẹp, ấn tượng sẽ là tiền đề để lưu giữ uy tín của mình trong cộng đồng. Nhãn hiệu và thương hiệu trên thực tế đều có thể định giá để xác định tài sản, góp vốn hay chuyển nhượng, chuyển giao quyền. Nhưng do bản chất chúng không hoàn toàn giống nhau nên doanh nghiệp cần đánh giá cụ thể để xác định. Còn nhãn hiệu lại có thể là từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng…giúp khách hàng nhận diện bên ngoài của hàng hóa.
Nếu một thương hiệu không phù hợp với khách hàng, việc bảo vệ pháp lý không có nhiều ý nghĩa đồng thời việc bảo vệ hợp pháp có thể không hữu ích nếu thương hiệu đó không đủ khác biệt (Theo Maurya và Misha, 2012). Nhãn hiệusau khi thực hiện thủ tục đăng kí trở thành tài sản và có thể được định giá, nhưngthương hiệuthì không thể được định giá một cách dễ dàng bởi nó là thành quả của cả một quá trình. Người ta có thể bắt chước mộtnhãn hiệunổi tiếng nào đó để gắn lên sản phẩm của mình nhưngthương hiệuthì không thể bắt chước hay làm giả được bởi nó bao hàm nhiều yếu tố và được cảm nhận bởi chính mỗi người tiêu dùng. Lấyví dụ về thương hiệu và nhãn hiệu, khi nói đến thương hiệu là nói đến hình tượng về hàng hóa trong tâm trí người tiêu dùng. Khi nói tới điện thoại Nokia, người dùng sẽ hình dung ra một sản phẩm bền. Còn khi nói tới điện thoại Iphone thì hình dung của mọi người là chiếc điện thoại “sang chảnh”.
Nhãn hiệu theo định nghĩa tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp, chỉ được bảo hộ khi đăng ký bảo hộ theo pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế tại cơ quan có thẩm quyền. Một doanh nghiệp có thể đăng ký nhiều nhãn hiệu với các nhóm sản phẩm khác nhau, hoặc theo từng thời kỳ kinh doanh. Còn nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự của các cá nhân, tổ chức cơ sở kinh doanh khác nhau trên thị trường. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa có định nghĩa về thương hiệu mà chỉ đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu, do đó chỉ có nhãn hiệu mới về đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Ở góc độ pháp lý, sử dụng thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa là đúng như trong quy định của pháp luật Việt Nam nhưng ở góc độ quản trị doanh nghiệp thì người ta sử dụng thuật ngữ thương hiệu nhiều hơn.
Phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu sẽ giúp các cá nhân, tổ chức bảo hộ và khai thác giá trị sản phẩm của mình. Đối với thương hiệu thì không phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật và không được pháp luật bảo hộ, thương hiệu sẽ do doanh nghiệp tự xây dựng và phát triển. Vì vậy, nó có thể tồn tại ngay cả khi hàng hóa, dịch vụ mang thương hiệu không còn tồn tại. Nguyên nhân xuất phát từ thương hiệu tồn tại là nhờ sự đánh giá của người tiêu dùng, đến khi nào sản phẩm của thương hiệu còn được người tiêu dùng sử dụng và tin tưởng thì thương hiệu sẽ vẫn tồn tại. Nhãn hiệu nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ sẽ được pháp luật công nhận bằng văn bản (cụ thể là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu).
Và vì là thuật ngữ kinh doanh nên sẽ không có một quy chuẩn nhất định nào về thương hiệu. Theo Kapferer , mỗi chuyên gia có xu hướng đưa ra định nghĩa của riêng mình về thương hiệu, hoặc các sắc thái chung trong định nghĩa, và do đó làm tăng thêm sự phức tạp trong việc giải thích về thuật ngữ “thương hiệu”. Thương hiệu và nhãn hiệu là hai thuật ngữ thường xuyên được nhắc đến trong đời sống, trong hoạt động kinh doanh thương mại.
- Dưới đây là một số ví dụ về Nhãn Hiệu của một số doanh nghiệp trong nước và ngoài thế giới.
- Vì vậy, nó có thể tồn tại ngay cả khi hàng hóa, dịch vụ mang thương hiệu không còn tồn tại.
- Ban đầu thì người ta đóng dấu nhãn hiệu cho các loại gia súc, về sau thì các nhà sản xuất gốm, gia thú và tơ lụa cũng sử dụng phương pháp này để phân biệt các sản phẩm của họ với nhà sản xuất khác.
- Chủ thể tạo rathương hiệucho một sản phẩm không phải người tạo ra sản phẩm đó, cũng không phải là cơ quan nhà nước mà chính là người tiêu dùng thông qua quá trình họ sử dụng và đánh giá s
ản phẩm.
Có nghĩa là, cùng là thương hiệu, nhưng bạn phải đáp ứng các điều kiện nội dung và hình thức, bao gồm cả việc đăng ký bảo hộ, để được xem là “nhãn hiệu”. Và các điều kiện này khác nhau giữa các quốc gia, và thậm chí, giữa mỗi quốc gia với quy định quốc tế (Công ước Paris, Thỏa ước Madrid, Hiệp định TRIPS). Thương hiệu là thuật ngữ sử dụng trong kinh doanh của nhãn hiệu, và ngược lại, nhãn hiệu là thể hiện pháp lý của thương hiệu, với các nội hàm tương tự. Chúng đại diện cho sản phẩm, nhóm sản phẩm hoặc tất cả các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất – tức gắn liền với sản phẩm.
Căn cứ xác lập của tên thương mại là thông qua việc sử dụng trong hoạt động kinh doanh và không yêu cầu đăng ký. Nhãn hiệu phải là dấu hiệu hữu hình nhìn thấy được , có thể được thể hiện dưới dạng từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng. Hay có thể ví von, thương hiệu là phần hồn, nhãn hiệu là phần xác của một cô gái đẹp.